Ngày 1/10,ếnchứngkhônlườngcủabệnhbạchhầvương an vũ Điều dưỡng trưởng Hà Thị Thanh Hoa, khoa Dự phòng và Kiểm soát nhiễm khuẩn, Bệnh viện Nhi Trung ương, cho biết bệnh bạch hầu có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục.
Đây là bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc. Các tổn thương nghiêm trọng chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra. Tỷ lệ tử vong thường khoảng 5-10% và có thể tăng đến 20% ở trẻ dưới 5 tuổi và người trên 40 tuổi.
Biến chứng
Biến chứng thường gặp nhất là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh. Biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra ở giai đoạn toàn phát hoặc chậm vài tuần sau khi khỏi bệnh. Khi viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tỷ lệ tử vong thường rất cao.
Biến chứng viêm dây thần kinh thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và sẽ hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì những biến chứng khác.
Liệt màng khẩu cái (màng hầu) là một biến chứng khác có thể gặp ở bệnh bạch hầu, thường xuất hiện vào tuần thứ 3 của bệnh.
Biến chứng liệt dây thần kinh vận nhãn, liệt cơ chi và cơ hoành có thể xuất hiện vào tuần thứ 5 của bệnh. Viêm phổi và suy hô hấp do hậu quả liệt cơ hoành. Trẻ em, đặc biệt là trẻ nhũ nhi, có thể bị viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp.
Lây truyền
Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae là nguyên nhân gây bệnh bạch hầu. Vi khuẩn có sức đề kháng cao ở ngoài cơ thể và chịu được khô lạnh. Nếu được chất nhầy bao quanh, vi khuẩn có thể sống trên đồ vật vài ngày, thậm chí vài tuần. Dưới ánh sáng mặt trời, vi khuẩn chết sau vài giờ. Ở nhiệt độ 58oC, vi khuẩn sống được 10 phút, ở môi trường phenol 1% và cồn 60 độ có thể sống được một phút.
Người bệnh và cả người lành đều mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh. Thời gian ủ bệnh thường 2-5 ngày, có thể lâu hơn. Thời kỳ lây truyền bệnh không cố định, có thể kéo dài khoảng hai tuần hoặc ngắn hơn, ít nhất là trên 4 tuần. Người bệnh đào thải vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, hoặc cuối thời kỳ ủ bệnh. Người lành mang vi khuẩn bạch hầu từ vài ngày đến 3-4 tuần; hiếm có trường hợp mang vi khuẩn mạn tính kéo dài trên 6 tháng.
Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn lây qua tiếp xúc với đồ vật có dính chất bài tiết từ người bệnh.
Bất cứ độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh.
Triệu chứng
Tùy vị trí vi khuẩn gây bệnh sẽ có biểu hiện khác nhau.
Bệnh bạch hầu mũi trước:Bệnh nhân sổ mũi, chảy ra chất mủ nhầy đôi khi có máu, có màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bệnh bạch hầu họng và amidan:Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2-3 ngày xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Trong một số trường hợp, bệnh nhân sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Nếu không được điều trị tích cực, bệnh nhân tử vong trong vòng 6 đến 10 ngày.
Bạch hầu thanh quản:Là thể bệnh tiến triển nhanh và nguy hiểm. Bệnh nhân có dấu hiệu sốt nhẹ, khàn tiếng, ho, các giả mạc tại thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được điều trị kịp thời, các giả mạc gây tắc đường thở, làm bệnh nhân suy hô hấp và tử vong nhanh chóng.
Ngoài những vị trí kể trên, vi khuẩn còn gây bệnh ở một số vị trí khác nhưng rất hiếm và có tiến triển bệnh nhẹ.
Phòng ngừa
Bệnh được phòng ngừa hiệu quả bằng tiêm vaccine. Hiện nay, tại Việt Nam không có vaccine đơn phòng bệnh bạch hầu, chỉ có vaccine phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu.
Bạch hầu là căn bệnh có tốc độ lây lan nhanh, biến chứng nguy hiểm và tỷ lệ tử vong cao. Do đó, trẻ em hay người lớn cũng cần tiêm vaccine đầy đủ, đến bệnh viện điều trị ngay khi có triệu chứng bệnh.
Lê Nga